Thủy ngân là gì? Các công bố khoa học về Thủy ngân
Thủy ngân là một nguyên tố hóa học có ký hiệu là Hg, có tổng số nguyên tử là 80 trong bảng tuần hoàn. Nó là một kim loại lỏng duy nhất ở nhiệt độ phòng và có mà...
Thủy ngân là một nguyên tố hóa học có ký hiệu là Hg, có tổng số nguyên tử là 80 trong bảng tuần hoàn. Nó là một kim loại lỏng duy nhất ở nhiệt độ phòng và có màu bạc. Thủy ngân có điểm nóng chảy thấp và dễ bay hơi, làm cho nó được sử dụng trong các thiết bị đo nhiệt độ, barometer, cặp nhiệt kế và akbarometer. Tuy nhiên, thủy ngân cũng là một chất độc nguy hiểm và có thể gây hại cho sức khỏe con người nếu tiếp xúc hoặc hít phải lượng lớn.
Thủy ngân cũng được gọi là quicksilver hoặc hydrargyrum và là một kim loại hóa học có nguồn gốc tự nhiên. Nó thường được tìm thấy trong mỏ quặng sulfide của cinnabar, tuy nhiên, nó cũng có thể được sản xuất từ quặng đồng hoặc quặng kẽm bằng phương pháp nhúng hoặc nhiệt phân.
Thủy ngân có một số đặc tính độc hại và gây hại cho môi trường. Khi tiếp xúc với thủy ngân, cơ thể không thể tiến hóa nó thành dạng không độc. Thủy ngân hấp thụ qua da và đường hoạt động của nó là thông qua hệ thần kinh trung ương nơi nó gây ra một loạt các triệu chứng và tác động tiêu cực, bao gồm đau đầu, mệt mỏi, chứng co giật, suy giảm thị giác và tổn hại não bộ. Nếu được hít phải, hơi thủy ngân có thể gây ra viêm phổi và gây nguy hiểm cho hệ thống hô hấp của con người.
Trong môi trường tự nhiên, thủy ngân thường tồn tại dưới dạng thủy ngân kết hợp với các chất khác. Chủ yếu là qua quá trình bay hơi, thủy ngân có thể chuyển từ dạng tự nhiên sang dạng hơi và sau đó lắng đọng trở lại thành thủy ngân, gây tác động tiêu cực cho môi trường và các sinh vật sống.
Do tính chất độc hại của nó, việc sử dụng thủy ngân đã bị hạn chế trong các sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên, nó vẫn được sử dụng trong một số ứng dụng công nghiệp như sản xuất pin, phân tích hóa học và trong ống dân dụng của đèn huỳnh quang. Các biện pháp an toàn phải được tuân thủ khi làm việc với thủy ngân để đảm bảo bảo vệ sức khỏe con người và môi trường.
Thủy ngân là một kim loại lỏng có ánh kim bạc, không mùi và không vị. Nó có mật độ cao, chỉ nhỉnh hơn kim loại chì. Thủy ngân có điểm nóng chảy là -38.83 độ C và điểm sôi là 356.73 độ C, là một trong những kim loại có điểm nóng chảy thấp nhất. Tuy nhiên, nó không bị đông cứng ở nhiệt độ phòng, chính vì vậy nó được sử dụng trong các thiết bị đo nhiệt độ.
Thủy ngân rất dẫn điện và dẫn nhiệt tốt, cũng như rất dễ bay hơi. Vì tính chất bay hơi và dễ chuyển đổi từ dạng lỏng sang hơi của nó, thủy ngân có khả năng hấp thụ các chất và các tác nhân độc hại khác trong môi trường xung quanh. Do đó, việc tiếp xúc lâu dài với thủy ngân có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực cho sức khỏe con người và môi trường.
Thủy ngân cũng có khả năng tạo hợp chất với các nguyên tố khác, tạo thành các dạng thủy ngân hợp chất như thủy ngân sulfide (cinnabar) và thủy ngân oxyd (thủy ngân đỏ). Cinnabar là một khoáng sản quan trọng, được khai thác để lấy thủy ngân. Ngoài ra, thủy ngân cũng có thể hấp phụ vào các tài liệu rắn như đất sét và làm tăng sự phân tán và lưu trữ của nó trong môi trường tự nhiên.
Do tác động tiêu cực của thủy ngân đến sức khỏe con người và môi trường, sự sử dụng các sản phẩm chứa thủy ngân đã bị hạn chế và rất nhiều quốc gia đã áp đặt các quy định và lệnh cấm về việc sử dụng thủy ngân. Thay vào đó, các vật liệu không chứa thủy ngân được sử dụng trong các ứng dụng công nghiệp và thương mại, nhưng thủy ngân vẫn được sử dụng trong một số thiết bị đo lường và thiết bị y tế, mặc dù với các biện pháp an toàn nghiêm ngặt.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thủy ngân":
Một mảnh lõi bùn từ một đầm lầy ở tây bắc Tây Ban Nha cung cấp một bản ghi về sự tích lũy khí quyển của thủy ngân kể từ 4000 năm trước đây. Nghiên cứu cho thấy khí hậu lạnh thúc đẩy sự tích lũy gia tăng và sự bảo tồn thủy ngân có độ ổn định nhiệt thấp, trong khi khí hậu ấm áp có đặc điểm là sự tích lũy thấp hơn và sự chiếm ưu thế của thủy ngân có độ ổn định nhiệt từ trung bình đến cao. Bản ghi này có thể được chia thành các thành phần tự nhiên và nhân tạo. Thành phần thủy ngân nhân tạo đáng kể bắt đầu từ khoảng 2500 năm trước, gần thời điểm bắt đầu khai thác thủy ngân ở Tây Ban Nha. Thủy ngân nhân tạo đã chiếm ưu thế trong bản ghi lắng đọng kể từ thời kỳ Hồi giáo (thế kỷ 8 đến 11 sau Công nguyên). Các kết quả được trình bày ở đây có những tác động đến chu trình thủy ngân toàn cầu và cũng gợi ý rằng độ labil nhiệt của thủy ngân tích lũy có thể được sử dụng không chỉ để định lượng các tác động của hoạt động con người, mà còn như một công cụ mới cho việc tái tạo nhiệt độ cổ đại một cách định lượng.
Các chỉ số sinh học cho sự tiếp xúc với thủy ngân (Hg) đã thường xuyên được sử dụng để đánh giá mức độ tiếp xúc và rủi ro trong các nhóm dân số nói chung. Chúng tôi đã đánh giá các chỉ số sinh học thường được sử dụng nhất và sinh lý học mà chúng dựa vào, nhằm khám phá sự biến thiên giữa các cá thể và tính phù hợp của chúng trong việc đánh giá mức độ tiếp xúc.
Nồng độ của thủy ngân tổng (THg), thủy ngân vô cơ (IHg) và thủy ngân hữu cơ (OHg, được giả định là methylmercury; MeHg) đã được xác định trong máu toàn phần, hồng cầu, huyết tương, tóc và nước tiểu của nam và nữ Thụy Điển. Một hệ thống phân tích phổ huỳnh quang nguyên tử bằng hơi lạnh với nhiều lần tiêm tự động cho phân tích Hg đã được phát triển, cung cấp độ nhạy, độ chính xác và độ ổn định cao. Sự phân bố của các dạng thủy ngân khác nhau trong các môi trường sinh học khác nhau đã được khám phá.
Nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm thủy sản cùng với sự suy giảm năng suất của nguồn cá biển do khai thác quá mức đã đặt ngành nuôi trồng thủy sản vào vị trí là một trong những yếu tố chính đóng góp vào nguồn cung cá toàn cầu. Sự phát triển mạnh mẽ của nuôi trồng thủy sản đã dấy lên nhiều mối quan ngại về môi trường như xả thải chất thải, sử dụng tài nguyên quá mức và phụ thuộc vào thức ăn thương mại. Trong bối cảnh này, phát triển các hệ thống nuôi trồng thủy sản bền vững đang trở thành nền tảng cho sự mở rộng lâu dài của ngành nuôi trồng thủy sản và nhằm đạt được sự bền vững về môi trường. Nuôi trồng thủy sản tổng hợp đa tầng (
Ngày càng có nhiều yêu cầu về việc truy xuất nguồn gốc của cá và các sản phẩm từ cá, cả nhằm bảo vệ người tiêu dùng và để thi hành quy định, đặc biệt là liên quan đến việc đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không được quản lý (IUU). Đánh bắt IUU là một vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu và là một trong những trở ngại chính trong việc đạt được nền thủy sản bền vững thế giới. Các dấu hiệu di truyền được sử dụng để xác định loài và quần thể trong sinh học thủy sản và có thể được sử dụng để hỗ trợ các cuộc điều tra và ngăn chặn đánh bắt IUU và gian lận thực phẩm. Bài báo này xem xét sự phát triển và ứng dụng của các kỹ thuật di truyền pháp y không phải con người với mục đích xác định loài, phân bổ quần thể và truy xuất chuỗi cung ứng trong ngành thủy sản toàn cầu. Các vấn đề chính trong việc chuyển giao từ nghiên cứu học thuật sang các phương pháp pháp y được xác thực được trình bày, làm nổi bật sự khác biệt trong cách dữ liệu được sản xuất và diễn giải. Sự gia tăng nhanh chóng trong việc sản xuất dữ liệu gen và tiềm năng trong tương lai cho độ phân giải không gian cao hơn của các stock cá được thảo luận song song với các hạn chế sinh học và thực tiễn trong việc sử dụng các dấu hiệu DNA để thi hành luật trong ngành thủy sản.
Bài báo này tổng hợp tài liệu liên quan đến các ứng dụng điện phân phân tích của các mảng điện cực vi dạng trong suốt 20 năm qua. Một mô tả lý thuyết ngắn về cơ chế vận chuyển khối lượng điều khiển hành vi của chúng được đưa ra, sau đó các phương pháp chế tạo chính được mô tả. Các ứng dụng được trình bày trong các phần sau của bài đánh giá này trải dài từ phân tích điện hóa thông thường, cụ thể là các phương pháp tước kim loại vi lượng, sử dụng các mảng được chỉnh sửa bằng thủy ngân đến những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực cảm biến sinh học (cảm biến enzym, cảm biến miễn dịch và cảm biến dựa trên axit nucleic).
Công ước Minamata nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường trước các nguồn phát thải và xả thải thủy ngân do con người gây ra. Nghiên cứu hiện tại xem xét các điều khoản của Công ước Minamata để đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với chu trình sinh địa hóa toàn cầu của thủy ngân (Hg). Mặc dù phạm vi của công ước bao trùm tất cả các danh mục phát thải khí quyển chính, nhưng mức độ mà nó sẽ ảnh hưởng đến các quỹ đạo phát thải trong tương lai vẫn chưa rõ ràng. Phân tích mô hình hộp cho thấy rằng chu trình sinh địa hóa toàn cầu trong tương lai dưới các điều kiện công nghệ dự kiến sẽ chủ yếu dẫn đến việc tránh được sự gia tăng, và sự khác biệt ước tính trong nồng độ khí quyển do các chính sách tạo ra sẽ vào khoảng 1% đến 2% mỗi năm. Kinh nghiệm hiện tại cho thấy rằng tri thức khoa học không đủ để quy kết nguyên nhân cho những thay đổi có quy mô như vậy. Một số cải tiến để nâng cao khả năng đo lường hiệu quả của Công ước Minamata được đề xuất, bao gồm cả việc đo lường và mô hình hóa. Environ Toxicol Chem 2014;33:1202–1210. © 2013 SETAC
Các tham số lũy thừa của các tập hợp cơ sở Gaussian được tối ưu hóa không tương đối của Huzinaga và Klobukowski đã được sử dụng cho các phép tính Dirac–Fock–Roothaan mà không cần tối ưu lại các tham số này. Đối với các nguyên tố nhẹ từ hêli (số nguyên tử Z=2) đến rhodium (Z=45), số lượng tham số lũy thừa được sử dụng là giống như các tập hợp cơ sở không tương đối, trong khi đối với các nguyên tố nặng hơn từ paladi (Z=46) đến thủy ngân (Z=80), hai hàm cơ sở Gaussian 2p (và ba hàm 3d) đã được bổ sung. Phương án cân bằng động năng và mô hình hình cầu đồng điện tích của hạt nhân nguyên tử đã được áp dụng. Chất lượng của các tập hợp cơ sở được tính toán gần đạt đến giới hạn Dirac–Fock.
Tiếp xúc với kim loại là một yếu tố tiềm năng thú vị trong nguyên nhân gây ra bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) không rõ nguyên nhân. Có nhiều báo cáo trường hợp liên kết các loại kim loại khác nhau với kiểu bệnh ALS. Hơn nữa, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra mức độ cao hơn của một số kim loại trong máu, xương, dịch tủy sống, nước tiểu hoặc tủy sống của bệnh nhân bị ALS so với nhóm đối chứng. Cũng có nhiều nghiên cứu trường hợp - nhóm đối chứng xem xét mối liên hệ có thể có của một số kim loại với sự phát triển của ALS. Chúng tôi đã tổng hợp tài liệu liên quan về việc tiếp xúc với kim loại và nguy cơ phát triển ALS. Chúng tôi nhận thấy rằng nhiều kim loại khác nhau đã được đề cập có vai trò trong ALS, nhưng có nhiều tài liệu điều tra vai trò của chì hơn bất kỳ kim loại nào khác. Mặc dù có nhiều nghiên cứu, vai trò, nếu có, của kim loại này trong tiến trình bệnh sinh của ALS vẫn chưa rõ ràng. Tương tự, các kim loại khác có kết quả chưa rõ ràng, mâu thuẫn hoặc không đủ để đưa ra kết luận dứt khoát. Một lời giải thích cho những phát hiện này là việc tiếp xúc với kim loại đơn thuần là không đủ để phát triển ALS. Có thể cần một sự tương tác giữa việc tiếp xúc với kim loại và di truyền của từng cá nhân để tạo ra những thay đổi di truyền học biểu sinh cuối cùng dẫn đến ALS.
Trong bối cảnh sự phát triển của nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chăm sóc sản khoa, các nữ hộ sinh gặp nhiều thách thức trong việc chuyển giao những bằng chứng mới nhất thành thực hành dựa trên bằng chứng (EBP) và thể hiện sự e ngại khi dẫn dắt sự thay đổi thực hành trong các lĩnh vực lâm sàng. Nghiên cứu này nhằm khám phá quan điểm của các nhà lãnh đạo hộ sinh về những yếu tố nào hỗ trợ hoặc cản trở nỗ lực của các nữ hộ sinh trong việc chuyển giao những bằng chứng mới nhất vào thực hành hàng ngày, và xem xét chúng liên quan đến cả mô hình Năng Lực, Cơ Hội, Động Lực và Hành Vi (COM-B) và Khung Lý Thuyết về Các Miền (TDF).
Nghiên cứu định tính này là một phần của dự án nghiên cứu hành động (AR) lớn hơn được thiết kế nhằm cải thiện khả năng triển khai EBP của các nữ hộ sinh. Dữ liệu được thu thập từ tám nhà lãnh đạo hộ sinh bang Tây Úc, những người đã giữ chức vụ quản lý hoặc điều hành trong tổ chức của họ. Năm nữ hộ sinh tham dự một hội thảo nhóm trọng tâm và ba người lựa chọn tham gia phỏng vấn trực tiếp. Phân tích chủ đề đã được sử dụng để mã hóa dữ liệu đã được transcribe và nhóm các phát hiện tương tự vào các phân loại phụ, được gộp lại thành bốn phân loại chính và một phát hiện cốt lõi chung. Những điều này được ánh xạ vào một ma trận kết hợp COM-B và TDF để xác định khả năng sử dụng của những công cụ này trong bối cảnh hộ sinh.
Các cú nhảy thủy lực thường được sử dụng như những bộ tản nhiệt để đảm bảo hoạt động lâu dài của các công trình thủy lực. Do đó, việc hiểu biết toàn diện và sâu sắc về các đặc điểm chính của chúng là rất thiết yếu. Trong bối cảnh này, nghiên cứu hiện tại tập trung vào các cú nhảy thủy lực với số Froude thấp,
Khảo sát thực nghiệm về các thuộc tính dòng chảy không khí-nước trong các cú nhảy thủy lực với số Froude thấp Mô tả chi tiết về các đặc điểm chính của bề mặt không khí-nước trên cuộn sóng vỡ Phân bố ngang của các thuộc tính dòng chảy không khí-nước qua chiều rộng của kênh và so sánh giữa đường giữa và bờ bên.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10